NC và PP điều trị mới
  • Tình hình điều trị tăng Acid Uric máu

    Trong những năm gần đây, cùng với mức sống của người dân được nâng cao, và thay đổi chế độ ăn, nhịp độ làm việc sinh hoạt cuộc sống khẩn trương, thời gian vận động lại giảm, tỷ lệ tăng acid uric máu cho thấy xu thế ngày một gia tăng nhanh chóng.

    Trong những năm gần đây, cùng với mức sống của người dân được nâng cao, và thay đổi chế độ ăn, nhịp độ làm việc sinh hoạt cuộc sống khẩn trương, thời gian vận động lại giảm, tỷ lệ tăng acid uric máu cho thấy xu thế ngày một gia tăng nhanh chóng. Tăng acid uric máu là một quá trình chuyển hóa purine dẫn đến sản xuất quá nhiều acid uric [1], hoặc do rối loạn chức năng bài tiết của thận gây ra [2], thậm chí hậu quả nghiêm trọng có thể dẫn đến viêm khớp gout và thổn thương thận do uric axit gây nên[3]. Để phòng tránh viêm khớp gout và thổn thương thận do tăng uric axit máu gây nên, người bệnh cần phải sử dụng lâu dài một hay nhiều loại thuốc có tác dụng làm giảm acid uric máu, nhưng trước mắt các loại thuốc có tác dụng giảm acid uric máu sử dụng còn kém an toàn, hiệu quả kinh tế chưa cao. Y học cổ tuyền có nguồn dược liệu vô cùng phong phú.  Thảo dược điều trị bệnh gout (chứng thống phong) mặc dù có một lịch sử lâu dài, nhưng cho đến nay thuốc YHCT đưa vào phác đồ điều trị chứng tăng acid uric máu hay chứng thống phong trên lâm sàng còn rất ít, đặc biệt ở Việt Nam. Nghiên cứu kế thừa, phát huy và phát triển YHCT, đưa những vị thuốc YHCT, các sản phẩm từ dược liệu có sẵn trong nước trở thành một loại hàng hóa trong nền kinh tế thị trường là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đang được nhiều nhà khoa học quan tâm.

     


    Vì vậy, để có thêm một sự lựa chọn mới trong điều trị chứng acid uric máu cho người bệnh, ….

    1.Can thiệp sớm

    Chủ yếu là ngăn chặn sự xuất hiện và phát triển của bệnh gout. Các đặc điểm lâm sàng của tăng acid uric máu và hội chứng rối loạn chuyển hóa (MS) có liên quan với nhau [4], nghiên cứu phòng chống bệnh tim (WOSCOPS) trên 6447 bệnh nhân nam, trong đó có 25% BN đủ tiêu chuẩn chẩn đoán MS, theo dõi trong 4.9 năm, phát hiện ra rằng nguy cơ DM tăng gấp 3,5 lần, nguy cơ biến cố mạch vành tăng 4-6 lần. Theo khuyến cáo của Bộ Y tế Trung Quốc, BN MS có nguy cơ phát sinh bệnh lý mạch vành là 6,6, bệnh lý mạch vành là 2,6. Trong chuỗi quan hệ bệnh lý giữa tăng acid uric máu với các biến chứng tim, não, thận do tăng acid uric máu gây nên thì, các nhân tố nguy hại gây bệnh của MS là mắt xích đầu tiên, tiếp theo là của bệnh lý tim mạch và đái tháo đuờng rồi đến cuối cùng là bệnh lý mạch vành, mạch máu não và bệnh lý suy thận mạn là những mắt xích bệnh lý luôn uy hiếp sức khỏe và tính mạng người bệnh. Trên thực tế điều trị tại bệnh viện, chủ yếu coi trọng điều trị can thiệp bệnh giai đoạn cuối, mà bỏ qua các yếu tố nguy cơ cần can thiệp sớm ở mắt xích gây bệnh đầu tiên là các nhân tố nguy hại gây bệnh của MS. Nếu thay đổi phương pháp tư duy phòng và chữa bệnh trên lâm sàng, chủ động tiến hành can thiệp sớm từ mắt xích đầu tiên là các nhân tố nguy hại gây bệnh của MS thì có thể ngăn chặn căn bệnh này ở một mức độ dừng hoặc chuyển đổi giai nặng trở thành giai đoạn nhẹ hơn, như vậy, không chỉ làm giảm sự đau khổ cho người bệnh mà cũng có thể tiết kiệm nguồn lực y tế.

    2. Y học hiện đại điều trị tăng acid uric máu

    Hiện nay YHHĐ điều trị và khống chế tăng acid uric máu là một biện pháp chủ yếu trong từng bước phòng trị bệnh thận tăng acid uric máu.

     


    Kiểm soát chế độ ăn uống [5]: Tránh ăn các thực phẩm giàu purin (như thịt, thịt nguội, cá mòi, bộ phận nội tạng động vật), tránh uống rượu, ăn rau quả tươi, trái cây và chế độ ăn uống giàu vitamin. Uống nhiều nước: lượng nước tiểu là 2000-~3000 ml/ ngày có lợi cho sự bài tiết acid uric, vì vậy uống nước trước khi đi ngủ lượng nước tiểu được bài xuất trong đêm tăng lên, tạo điều kiện cho việc bài tống các tinh thể nhỏ tạo sỏi trong đường niệu và chống nhiễm trùng đường niệu, nước tiểu pha loãng có thể làm chậm tốc độ hình thành và phát triển của các loại sỏi đường niệu. Kiềm hóa nước tiểu - đây là một biện pháp quan trọng để phòng ngừa sỏi acid uric, thuốc thường dùng có tính kiềm là sodium bicarbonate kiềm hoặc hợp chất có tính kiềm (axit citric 140 g , natri citrat 98 g).
    Thuốc điều trị bệnh thận do tăng acid uric máu: thuốc uricosuric - những loại thuốc này có thể ức chế tái hấp thu acid uric ở ống thận, do đó làm tăng sự bài tiết acid uric. Bệnh nhân suy thận và đào thải axit uric hơn 900 mg/ngày hoặc có sỏi đường niệu không nên sử dụng nhóm thuốc này, mà nên được sử dụng các thuốc chất ức chế tổng hợp acid uric như probenecid, Narcaricin mite. Thuốc ức chế tổng hợp acid uric - thích hợp dùng cho acid uric máu tăng cao, tăng đào thải axit uric qua đường niệu nhiều, và có sỏi đuờng niệu, thuốc thường được sử dụng là allopurinol. Ngoài ra, cần thận trọng với những thuốc gây tăng tái hấp thu và giảm đào thải acid uric như aspirin, thuốc lợi tiểu, vitamin C, vitamin nhóm B, vv), chống chỉ định dùng các loại thuốc gây tổn thương thận như indomethacin..
    Zhengxiaohui và cs [6] sử dụng losartan điều trị  tăng acid uric máu, sau 10 ngày dùng thuốc, nồng độ acid uric huyết thanh của BN nhóm dùng losartan bắt đầu giảm đáng kể, và giảm đáng kể sau 28 ngày đầu điều trị so với trước điều trị, sự khác biệt nhóm dùng losartan và captopril có ý nghĩa thống kê (P <0,05).
    Guomingshuan và cs [7] sử dụng irbesartan điều trị tăng acid uric máu, nồng độ acid uric máu giảm rõ rệt sau điều trị so với trước điều trị (p <0,01). Nhóm đối chứng không có sự thay đổi đáng kể nồng độ acid uric huyết thanh (p> 0,05).
    Hanwenjuan và cs [8] sử dụng Benzbromarone và allopurinol điều trị tăng acid uric máu. Sau 3 tháng điều trị, các triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân trở về bình thường,  không đau khớp, triệu chứng tim mạch được cải thiện tốt, huyết áp trung bình giảm (1,86 ± 1,06) kPa, chức năng thận hồi phục trở lại bình thường, nồng độ acid uric huyết thanh trở về giới hạn thường. Nhóm đối chứng sau 3 tháng điều trị các triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân trở về bình thường, nhưng vẫn còn 1 số bệnh nhân khớp còn đau nhẹ, chức năng thận được cải thiện so với trước điều trị, song vẫn còn 4 BN còn tăng ure máu, creatinine chưa trở về giới hạn bình thường, có 8 BN có acid uric huyết thanh > 419 mmol / L. 

    3.Y học cổ truyền điều trị

    Chenyongqiang [9] lấy bổ tỳ thận trừ thấp trục ứ thang (ý dĩ 30g, sinh hoàng kỳ 30g, đan sâm 20g, thương truật 15g, ngưu tất 15g, thổ phục linh 15g, sơn thù 10g, thanh bì 10g, uy linh tiên 10g, sa tiền tử 10g, tỳ giải 10g) điều trị tăng acid uric máu nhóm NC. Sắc uống mỗi ngày 1 thang. 3 tuần/ 1 liệu trình điều trị. Cả 2 nhóm đều điều trị liên tục 2 liệu trình. Cả 2 nhóm trong nghiên cứu đều yêu cầu chế độ ăn ăn giảm tối đa purine, không ăn đồ cay nóng, tránh uống rượu, tránh gắng sức, căng thẳng tinh thần...  Kết quả: 23 bệnh nhân NNC khỏi 10 BN, có hiệu quả trong 11 BN, không hiệu quả 2 BN, tổng hiệu quả là 90%, 15 BN NĐC, khỏi 5 BN , có HQĐT 4 BN, không hiệu quả 6 BN, tổng hiệu quả là 60%. Có sự khác biệt đáng kể (P <0,01) giữa hai nhóm.
    Zhangqihui và cs [10] cho tất cả các bệnh nhân đều thực hiện chế độ ăn uống hợp lý, tập thể dục thường xuyên, kiểm soát cân nặng, hạn chế rượu cai thuốc lá. Trên cơ sở đó, cả 2 nhóm đều được điều trị bằng thuốc tây y theo phác đồ. NNC đồng thời được dùng thêm thuốc thang điều bổ can thận trừ đàm thấp thông kinh lạc (thạch quyết minh 30g, hà thủ ô 30g, dạ giao đằng 30g, tang kí sinh 30g, uy linh tiên 30g, thổ phục linh 30g, đan sâm 30g, thục địa 15g, uất kim 12g, thạch xương bồ 12g, sơn thù nhục 12g, tỳ giải 12g, đỗ trọng 12g, tri mẫu 9g, hoàng bá 9g, bạch tật lê 9g), sắc uống ngày 1 thang, 2 nhóm liên tục điều tị 28 ngày. Sau điều trị NNC có nồng độ acid uric máu giảm rõ rệt so với trước điều trị với p<0,05.
    Zhaolingmei và cs [11] nghiên cứu nhóm đối chứng không sử dụng thuốc ức chế tổng hợp acid uric hoặc thuốc tăng đào thải acid uric. NNC sử dụng thuốc thang bổ thận kiện tỳ lợi thấp thông lạc (đan sâm 30g, sơn dược 30g, sa tiền tử 30g, hoàng kỳ 20g, nhục dung 15g, ba kích 15g, hoàng tinh 15g, sinh địa 15g, thục địa 15g, hà thủ ô 15g, uy linh tiên 15g, tỳ giải 15g, bạch truật 15g, thương truật 15g, ý dĩ 15g, thổ phục linh 15g, trạch tả 12g) sắc uống này 1 thang liệu trình điều trị 6-8 tuần. Sau điều trị NNC có nồng độ acid uric máu giảm rõ rệt và trở về giới hạn bình thường.
    Sunlina và cs [12] sử dụng NĐC thay đổi thói quen sinh hoạt trong dự phòng bệnh, NNC 35 bệnh nhân trên cơ sở thay đổi thói quen sinh hoạt, dùng thêm thuốc thang kiện tỳ hóa thấp tiết trọc (ý dĩ 30g, mộc qua 20g, uy linh tiên 15g, tỳ giải 15g, thổ phục linh 10g, nấm từ sơn 6g) điều trị chứng tăng acid uric máu. NĐC có hiệu quả điều trị rõ là 7 BN, có hiệu quả điều trị là 15 BN, không hiệu quả là 13 BN, tổng có hiệu quả là 62,8%, NNC HQĐT rõ là 16 BN, có hiệu quả là 14 BN, không hiệu quả là 5 BN, tổng có hiệu quả là 85,7%. Tổng tỷ lệ có hiệu quả của 2 nhóm có sự khác biệt nhau với p<0,05.
    Zhangfurong [13] sử dụng thuốc thang (sa tiền tử 30g, kê huyết đằng 30g, thổ phục linh 20g, ý dĩ 20g, vương bất lưu hành 20g, tỳ giải 15g, uy linh tiên 15g, xichs thược 15g, thương truật 10g, hoàng bá 10g, phòng kỷ 10g, ngưu tất 10g) điều trị tăng acid uric máu. NĐC được điều trị bằng thuốc allopurinol. Cả 2 nhóm đều được điều trị  liên tục 6 tuần/1 liệu trình. Tổng hiệu quả là 66,7%. Cả 2 nhóm sau 1 liệu trình điều trị đều thu được hiệu quả điều trị tương đối tốt, sự khác biệt giữa tỷ lệ có hiệu quả của 2 nhóm có sự khác biệt nhau không có ý nghĩa thống kê với p>0,05. Dừng thuốc sau 3 tháng NNC có tỷ lệ khỏi hoàn toàn, và tổng tỷ lệ có hiệu quả điều trị được phân biệt rõ là 50%, 90%, NĐC là 16,7%, 66,7%. Tỷ lệ chữa khỏi lâu dài của nhóm điều trị và tổng tỷ lệ hiệu quả là tốt hơn đáng kể so với NĐC, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với (p<0,05) .
    Shile và cs [14] thuốc thang tứ diệu phương gia thổ phục linh (hoàng bá, thương truật, ngưu tất, ý dĩ nhân, thổ phục linh…), chiết xuất thành phần có hiệu quả điều trị tiến hành nghiên cứu tác dụng điều trị chứng thống phong (gout), toàn phương có tác dụng làm giảm acid uric ở chuột có tăng acid uric (p<0,05) sau 3h sử dụng, có tác dụng giảm đau rõ rệt trên chuột bị gây đau bởi tiêm acid axetic (p<0,01); Liều lượng lớn có thể làm giảm đáng kể hàm lượng axit uric tăng ở chuột (p <0,01); liều trung bình tại các thời điểm sau dùng thuốc 1h, 3h có thể làm giảm nồng độ axit uric cao ở chuột (p <0,05 và p <0,01); liều nhỏ có thể ức chế acid uric huyết thanh tăng (p <0,05) .
    Panzhi và cs [15] nghiên cứu chiết xuất thành phần có tác dụng điều trị của hoàng bá và thương truật sử dụng cho chuột tăng acid uric máu đã có ảnh hưởng nhất định. Chuột NNC được bơm dịch chiết hoàng bá thương truật vào dạ dày, liên tục trong 1 tuần, nghiên cứu cho thấy, NNC và NĐC được dùng allopurinol có thể làm giảm đáng kể acid uric huyết thanh của chuột tăng acid uric máu (p <0,01), cả hai nhóm có nồng độ acid uric huyết thanh sau điều trị so với động vật bình thường có chỉ số acid uric huyết thanh xu thế giảm hơn, nhưng không có khác biệt đáng kể (p>0,05).
    Bixiangjie và cs [16] nghiên cứu 120 BN được chia ngẫu nhiên thành 3 nhóm mỗi nhóm 40 BN: NNC, NĐC dùng thuốc YHHĐ được điều trị bằng colchicine, nimesulide. NĐC dùng chế phẩm thuốc YHCT là Viên nang thống phong định. NNC dùng thuốc thang tỳ giải ẩm (tỳ giải, tần giao, thanh phong đằng, mộc qua, thổ phục linh, nấm từ sơn, uy linh tiên, sa tiền tử, trạch lan, xích thược, ý dĩ, bạch thược) điều trị chứng viêm khớp gout cấp. Cả 3 nhóm sau điều trị đều có HQĐT rõ rệt, 2 NNC và NĐC YHHĐ tổng có hiệu quả điều trị cao hơn hẳn so với NĐC YHCT (p<0,05).
    Houjianping và cs [17] nhận thấy chế phẩm thuốc Dangguiniantong hoàn liều trung bình và liều nhỏ đều có tác dụng điều trị chứng bệnh thận do tăng acid uric máu trên chuột, có tác dụng làm giảm đáng kể hàm lượng ure và creatinin máu ở chuột (p<0,01).
    Zhangxueshan và cs [18] nghiên cứu 136 BN được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm NNC 76 BN, NĐC 60 BN. Cả 2 nhóm đều được biện chứng phân thể điều trị. NNC trên cơ sở điều trị có bản được điều trị thêm shuangbasan (trắc bá diệp, đại hoàng, hoàng bá, bạc hà, diên hồ sách) làm thành hồ dán, dán ngoài vùng khớp sưng đau. NNC có HQĐT đạt 96,1%, NĐC đạt 78,3%, sự khác biệt về HQĐT giữa 2 nhóm có ý nghĩa thống kê với p<0,05
    Huangjiantao [19] sử dụng thuốc thang trừ phong quyên tý phương (thổ phục linh, tỳ giải, uy linh tiên, nhẫn đông đằng, ty lạc qua, xích tiểu đậu, hoạt thạch, phòng kỷ, tần giao, trạch tả, địa long, chi tử, ý dĩ, tằm sa), điều trị 52 BN viêm khớp gout, tổng có hiệu quả là 88,5%. Các triệu chứng sưng nóng đỏ đau hạn chế vận động các khớp, các triệu chứng cơ năng toàn thân khác đều được cải thiện rõ rệt (p<0,05), tốc độ máu lắng, acid uric đều được cải thiện (p<0,01).

    4.YHCT kết hợp YHHĐ điều trị

    Huangdeguang và cs [20] sử dụng đơn thuần thanh niệu thang (nhẫn đông đằng 20g, đan sâm 15g, thanh phong đằng 12g, hoàng bá 10g, phục linh 10g, bội lan 10g, nấm từ sơn 10g, cam thảo 6g) điều trị cho NĐC YHCT 28 BN. NĐC YHHĐ 41 BN dùng đơn thuần tây y có thể dùng một trong những thuốc như probenecid, allopurinol, sodium bicarbonate. Và NNC dùng kết hợp cả bải thuốc YHCT thanh niệu thang và thuốc tây y.  Sau 1 tháng điều trị NNC có nồng độ acid uric máu giảm đáng kể so với 2 NĐC với p<0,01. YHCT kết hợp YHHĐ điều trị tăng acid uric máu có hiệu quả cao rõ rệt.
    Wangshuo và cs [21]  NĐC YHCT sử dụng đơn thuần thuốc thang (sinh hoàng kỳ 20g, phòng kỷ 15g, sài hồ 15g, trạch tả 15g, hoài sơn 12g, hạ khô thảo 12g, hải tảo 12g, bạch truật 10g, hoàng bá 9g, sinh khương 6g, bán hạ chế 6g, đại táo 12 quả). NĐC YHHĐ dùng đơn thuần tây y (Benzbromarone và allopurinol). Và NNC dùng kết hợp cả bài thuốc YHCT và thuốc tây y. Cả 3 nhóm điều trị 2 klieeuj trình điều trị liên tục, 4 tuần/1 liệu trình. Sau 2 liệu trình điều trị NNC có nồng độ acid uric máu giảm về giới hạn bình thường là 18 BN, dùng thuốc 3 liệu trình điều trị nồng độ acid uric máu giảm về giới hạn bình thường là 15 BN (tổng có hiệu quả là 86,8%); nồng độ acid uric máu giảm nhưng chưa về giới hạn bình thường có 4 BN (10,5%), nồng độ acid uric máu không giảm rõ rệt 1 BN (2,7%). YHCT kết hợp YHHĐ điều trị tăng acid uric máu có hiệu quả cao rõ rệt.
    Lidehe và cs [22] NNC trên cơ sở điều trị tây y được điều trị thêm thuốc thang YHCT, dùng bài thuốc nghiệm phương tam kim thang và tam diệu tán gia giảm (kim tiền thảo 30g, hải kim sa 30g, kim ngân hoa 30g, sa tiền tử 20g, uy linh tiên 20g, nhẫn đông đằng 20g, thổ phục linh 20g, ngưu tất 10g, thương truật 10g, hoàng bá 10g, trạch tả 10g, ý dĩ 10g, phòng kỷ 10g) điều trị gout. NĐC dùng tây y đơn thuần (giai đoạn cấp tính được dùng colchicine, giai đoạn hết cấp tính được dùng probenecid, có tổn thương thận được dùng allopurinol). NNC 40 BN sau điều trị khỏi là 19 BN, chuyển tốt là 17 BN, không hiệu quả là 4 BN, tổng có hiệu quả là 90,0%; NĐC 36 BN, sau điều trị khỏi là 10 BN, chuyển tốt là 16 BN, không hiệu quả là 10 BN, tổng có hiệu quả là 72,0%.
    Zhengwweiming và cs [23] NĐC 36 BN được điều trị bằng colchicin và allopurinol. 38 BN NNC trên cơ sở điều trị tây y được điều trị thêm thuốc thang YHCT bài gia giảm tri bá địa hoàng thang (thổ phục linh 30g,  ý dĩ 30g, nhẫn đông đằng 30g, tri mẫu 15g, sinh địa 15g, bạch linh 15g, trạch tả 15g, tỳ giải 15g, đan bì 10g, địa long 10g, đào nhân 10g, hoàng bá 10g) điều trị viêm khớp gout cấp. NNC tổng có hiệu quả là 94,74%, NĐC 75,00%, 2 nhóm đều có nồng độ acid uric máu SĐT giảm rõ rệt so với TĐT có ý nghĩa thống kê với p<0,01.
    Hexia [24] NNC 54 BN được điều trị bằng thuốc thang tứ diệu dũng an thang gia vị (kim ngân hoa 90g, huyền sâm 90, đương quy 30g, cam thảo 30, ý dĩ 30g, lạc thạch đằng 15g, xuyên khung 10g, hoàng bá 10g, ngưu tất 10g, hồng hoa 10g) kết hợp với sóng vật lý trị liệu ổ khớp điều trị viêm khớp gout cấp, NĐC dùng tây y điều trị colchicin. Cả 2 nhóm được điều trị 10 ngày/1 liệu trình điều trị. Cả 2 nhóm KQĐT lâm sàng không có sự khác biệt nhau (p>0,05), song, thời gian giảm sưng nóng đỏ đau hạn chế vận động khớp của NNC ưu thế trội hơn NĐC, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,01. NNC không có tác dụng không mong muốn, NĐC có biểu hiện tác dụng phụ với các mức độ khác nhau, sự khác biệt về tác dụng phụ của 2 nhóm có ý nghĩa thống kê với p<0,01.
    Tóm lại, YHHĐ điều trị tăng acid uric máu phần lớn chọn các thuốc có tác dụng ức chế sự tổng hợp acid uric hoặc tăng đào thải acid uric, đều có hiệu quả nhất định, nhưng các loại thuốc này đều có tác dụng phụ tương đối lớn, dễ gây tổn thương gan thận, ức chế cốt tủy và kích ứng niêm mạc ống tiêu hóa, nên khó kéo dài điều trị, hơn nữa sau dùng thuốc lại tăng acid uric trở lại. Vì vậy, YHHĐ nhanh chóng giải quyết vấn đề tác dụng phụ của thuốc điều trị tăng acid uric máu là một khó khăn lớn. Trong khi đó, thuốc YHCT có thể tránh được những tác dụng phụ không mong muốn này, thuốc YHCT tương đối ít tác dụng phụ, không gây tổn hại lớn đến cơ thể. Tuy nhiên, trong những năm gần đây các thuốc phòng ngừa và điều trị tăng acid uric máu đã có nhiều tiến bộ lớn, nghiên cứu bệnh nguyên bệnh cơ của tăng acid uric máu, biện chứng phân thể chứng hậu của tăng acid uric máu, phân bố quy luật chứng hậu của tăng acid uric máu theo quan niệm của YHCT còn chưa được nghiên cứu nhiều, mà chủ yếu là nghiên cứu lâm sàng tăng acid uric máu. Song, trong nghiên cứu lâm sàng, thiết kế nghiên cứu chua được khoa học, còn thiếu nhiều dữ liệu thống kê lớn, kết quả nghiên cứu còn nhiều khác biệt nhau, còn nhiều tranh cãi trong nghiên cứu. Tuy nhiên, y học cổ truyền điều trị tăng acid uric máu trong lý thuyết và trong thực tế đã có những thành tựu to lớn đã chỉ ra hướng nghiên cứu và đặt một nền tảng vững chắc cho nghiên cứu sau này, vì vậy, xuất phát từ góc độ y học, phát triển nhanh chóng nghiên cứu thuốc YHCT điều trị tăng acid uric máu là vấn đề khả thi và có tiềm năng ứng dụng lâm sàng lớn.

     

TIN TỨC KHÁC - Tình hình nghiên cứu lâm sàng YHHĐ kết hợp YHCT điều trị tăng sản lành tính tuyến tiền liệt - Tình hình nghiên cứu YHCT điều trị sỏi hệ tiết niệu - Tình hình Y dược học cổ truyền nghiên cứu điều trị tăng sản lành tính tuyến tiền liệt - Nghiên cứu tác dụng của bài thuốc “Thăng thanh giáng trọc thang” trong điều trị bệnh nhân suy thận mạn
GIỜ KHÁM BỆNH

Tất cả các ngày trong tuần từ thứ hai đến chủ nhật
Sáng: từ 8h đến 11h30
Chiều: từ 1h30 đến 9h tối

HOTLINE: TIẾN SỸ NHẠN: 0913.031.374